Thiết kế và chế tạo Admiral (lớp tàu chiến-tuần dương)

HMS Hood (51) được đặt lườn vào ngày 31 tháng 5 năm 1916, cùng ngày với trận Jutland. Việc bị mất ba tàu chiến-tuần dương Anh trong trận này đã khiến cho công việc chế tạo của cả ba chiếc bị ngưng lại chờ đợi một cuộc điều tra về những khiếm khuyết trong thiết kế. Cuộc điều tra của Đô đốc Jellicoe đổ lỗi việc mất các con tàu cho sai sót trongquy trình vận chuyển thuốc phóng cordite vốn khiến cho các đám cháy trên các tháp pháo hay thang nâng đến được hầm đạn. Nó đề nghị gắn các thiết bị chống cháy cho hầm đạn và các phòng nạp thuốc cũng như cải tiến lớp vỏ giáp sàn tàu bên trên các hầm đạn nhằm ngăn ngừa đạn pháo bắn tới hay mảnh đạn nổ có thể thâm nhập hầm đạn. DNC và một trong các Thứ trưởng Hải quân đã phản đối đề nghị sau, tin rằng không có chứng cứ trực tiếp cho thấy các hầm đạn đã bị xuyên thủng trực tiếp.[7]

Vào ngày 5 tháng 7, DNC đệ trình hai phiên bản thiết kế được sửa đổi cho lớp Admiral. Thiết kế thứ nhất là một sự cải tiến dựa trên thiết kế trước đây với sự gia tăng đôi chút vỏ giáp dành cho sàn tàu, tháp pháo, tháp súng nhỏ và ống khói, vỏ giáp 25 mm (1 inch) dành cho cửa và thang nâng của hầm đạn 140 mm (5,5 inch), và số máy phát điện được tăng từ bốn lên tám chiếc. Những thay đổi này làm gia tăng tải trọng con tàu thêm 1.250 tấn và mớn nước thêm 0,23 m (9 inch). Thiết kế thứ hai cải thiện mạnh mẽ sự bảo vệ, biến con tàu trở thành một thiết giáp hạm nhanh. Vỏ giáp dọc nói chung được tăng cường 50% và việc bảo vệ sàn tàu dày hơn đôi chút so với thiết kế thứ nhất. Những thay đổi này đã cộng thêm 4.300 tấn tải trọng vào thiết kế nguyên thủy và gia tăng tầm nước thêm 0,6 m (2 ft), và giảm bớt một nửa knot (1 km/h) tốc độ. Thiết kế này khiến cho nó tương đương với những chiếc Queen Elizabeth, nhưng nhanh hơn 13 km/h (7 knot) và việc bảo vệ chống ngư lôi được cải thiện đáng kể, cho dù nó nặng hơn khoảng 13.000 tấn so với những con tàu cũ. Sau khi DNC đệ trình các thiết kế trên, ông được yêu cầu cân nhắc thêm các biến thể với các tháp pháo 380 mm (15 inch) ba nòng, và chúng được đệ trình vào ngày 20 tháng 7. Bộ Hải quân chọn kiểu thiết kế thiết giáp hạm nhanh, và Hood lại được tiếp tục chế tạo vào ngày 1 tháng 9.[8]

Cuối tháng đó, sơ đồ vỏ giáp của Hood lại được thay đổi đôi chút dưới ánh sáng của việc phân tích tiếp theo những kết quả của trận Jutland, và vỏ giáp sàn tàu được gia tăng nhằm đảm bảo một độ dày tối thiểu là 229 mm (9 inch) chống đỡ lại đạn pháo bắn đến ở góc cho đến 30° từ đường chân trời. Những thay đổi khác được thực hiện vào năm 1917 trong khi chế tạo gia tăng độ dày của mặt trước và nóc tháp pháo. Những thay đổi này, cùng với nhiều thay đổi nhỏ khác, làm gia tăng trọng lượng rẽ nước của nó thêm 600 tấn, tầm nước sâu thêm 76 mm (3 inch) và làm giảm tốc độ tối đa xuống còn 57,4 km/h (31 knot). Những thay đổi còn được tiếp tục trong năm 1918 khi độ dày của vòng chỏm hầm đạn tăng từ 25 mm (1 inch) lên 50 mm (2 inch), trong khi lớp giáp dành cho phần ống khói bên trên tháp chỉ huy phía trước được loại bỏ để bù trừ. Vào tháng 5 năm 1919 độ dày của lớp vỏ giáp trên sàn tàu chính ngang với hầm đạn được tăng lên 76 mm (3 inch), và bốn khẩu pháo hạng hai 140 mm (5,5 inch) cùng với hầm đạn của chúng được loại bỏ tương ứng. Một tháng sau, kế hoạch được chấp thuận nhằm gia tăng độ dày của sàn tàu chính bên trên hầm đạn phía trước lên 127 mm (5 inch) và đến 152 mm (6 inch) bên trên hầm đạn phía sau; bốn ống phóng ngư lôi bên trên mặt nước và vỏ bảo vệ tương ứng của chúng được loại bỏ, cũng như độ dày của thành lớp giáp bảo vệ cho tháp điều khiển ngư lôi được giảm còn 37 mm (1,5 inch) để bù đắp trọng lượng của vỏ giáp. Tuy nhiên, việc bổ sung vỏ giáp cho sàn tàu không bao giờ được thực hiện và các ống phóng ngư lôi (ngoại trừ vỏ bảo vệ của chúng) được giữ lại.[9]

Tuy nhiên, vào đầu năm 1917, việc chế tạo ba con tàu chị em với Hood bị ngưng lại do nhân lực và vật liệu cần thiết được sử dụng vào việc chế tạo và sửa chữa các tàu buôn và tàu hộ tống vốn đang rất cần đến trong việc duy trì các tuyến đường liên lạc thông thương của Anh trước mối đe dọa phong tỏa của tàu ngầm U-boat Đức. Dù sao, công việc thiết kế vẫn cứ được tiến hành mặc dù Hood đã được chế tạo khá nhiều để có thể tích hợp những thay đổi sau cùng này.[10] Vào cuối năm 1917, thiết kế của những con tàu bị tạm ngưng được thay đổi để gia tăng bề dày của lớp vỏ giáp nóc tháp pháo lên 152 mm (6 inch) cùng nhiều thay đổi khó xác định lên lớp gáp các vách ngăn; chúng làm tăng thêm 267 tấn tải trọng. Các thay đổi khác là cấu trúc cầu tàu được thiết kế lại, sắp xếp các ống khói sát lại gần nhau và tráo đổi vị trí phòng nạp đạn và hầm đạn của các khẩu pháo 380 mm (15 inch).[11]

Việc chế tạo Hood được tiến triển nhiều nhất trong số những con tàu của lớp, và nó được tiếp tục để hoàn tất đề phòng trường hợp người Đức có thể xoay xở để hoàn thành một trong những tàu chiến-tuần dương mới của họ. Đô đốc Beatty liên tục gây áp lực cho việc chế tạo Hood được hoàn tất, cũng như những con tàu chị em được tái khởi động, nhưng Nội các Chiến tranh đã từ chối chấp thuận việc này do không thể hy sinh bất cứ khoản nào trong chương trình đóng tàu cho mục đích đó. Sau khi chiến tranh kết thúc, ba con tàu chị em đã ngừng lại bị hủy bỏ hẳn vì chúng không thể tích hợp toàn bộ những bài học của chiến tranh.[12]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Admiral (lớp tàu chiến-tuần dương) http://www.hmshood.com/history/construct/design.ht... http://www.navweaps.com/Weapons/WNBR_15-42_mk1.htm http://www.navweaps.com/Weapons/WNBR_4-45_mk5.htm http://www.navweaps.com/Weapons/WNBR_55-50_mk1.htm http://www.navweaps.com/Weapons/WTBR_PreWWII.htm //www.worldcat.org/oclc/38581302 //www.worldcat.org/oclc/5991550 https://archive.org/details/hoodbismarck0000mear https://commons.wikimedia.org/wiki/Category:HMS_Ho...